(Xây dựng) - 8 hộ dân gồm ông Nguyễn Văn Sơn, Nguyễn Văn Sáng, Trần Hữu Tiếp, Hoàng Văn Ngọc, Hoàng Văn Sinh, Đặng Xuân Toàn và các bà Nguyễn Kiều Oanh, Trịnh Thị Vân cùng ngụ P.Long Bình, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã đồng loạt gửi đơn cầu cứu Thanh tra chính phủ, và các cơ quan bảo vệ pháp luật tố cáo dấu hiệu cố ý làm trái của UBND TP Biên Hòa (tỉnh Đồng Nai) trong quá trình thu hồi đất.
Cùng một khu vực giá bồi thường khác nhau Theo người dân tố cáo, 8 hộ dân trên đang sử dụng hơn 92.377m2, gồm đất rừng sản xuất được trồng bằng vốn ngân sách là 71.594m2 từ năm 1988, và đất nông nghiệp tự khai phá hoặc chuyển nhượng là 20.783m2 từ năm 1976. Toàn bộ số đất trên thuộc khu căn cứ quân sự Long Bình, TP Biên Hòa và được 8 hộ dân canh tác liên tục, ổn định, và không tranh chấp. Tuy nhiên, ngày 25/10/2012 người dân nhận được hàng loạt quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường của UBND TP Biên Hòa mà không có quyết định thu hồi đất, để thực hiện dự án xây dựng khu dân cư phục vụ tái định cư tại P.Long Bình. Không những thế, UBND TP Biên Hòa cũng không bồi thường, mà chỉ hỗ trợ cho các hộ dân bị thu hồi đất từ 30 - 50% giá đất lâm nghiệp (rừng sản xuất), tương ứng là 56.100 đồng (đất tự khai phá) và 93.500 đồng/m2 đối với đất rừng sản xuất. Điều đáng nói, trước đó vào năm 2007, khi UBND tỉnh Đồng Nai thu hồi đất của hộ ông Nguyễn Văn Sơn (là một trong những người bị thu hồi đất đợt này) để phục vụ dự án mở rộng KCN Amata giai đoạn 2B thì bồi thường bằng 100% giá đất rừng sản xuất năm 2007. Điều này cho thấy sự vô lý: Cùng một loại đất, nằm cùng một khu vực nhưng lại có hai cách bồi thường khác nhau. Hành xử trái luật? Trao đổi với chúng tôi về vụ việc trên, luật sư Nguyễn Trọng Tuệ (Đoàn luật sư Tỉnh Đồng Nai) nhận định: Việc UBND TP Biên Hòa áp giá bồi thường như vậy là trái với Khoản 2, Điều 6, Nghị định 197/2004 ngày 3/12/2004, Điều 44, Nghị định 84/2004/2007 ngày 25/5/2007, và Khoản 2, Điều 14, Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/08/2009. Theo các quy định trên thì “nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng vào mục đích nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá tại thời điểm quyết định thu hồi đất”. Theo tìm hiểu của chúng tôi, trước lối hành xử có dấu hiệu trái pháp luật của UBND TP Biên Hòa, người dân đã đồng loạt khiếu nại tới các cơ quan thẩm quyền, yêu cầu Chủ tịch UBND TP Biên Hòa phải ban hành quyết định thu hồi đất và xem xét lại giá bồi thường cho 8 hộ dân nói trên. Thật bất ngờ, người dân cho biết: Toàn bộ đơn thư khiếu nại của chúng tôi đều bị TP Biên Hòa ra quyết định bác đơn khiếu nại. Luật sư Tuệ cũng cho rằng: Theo bảng giá đất năm 2012 được ban hành kèm theo quyết định 72/QĐ-UBND ngày 22/12/2011 của UBND tỉnh Đồng Nai, thì giá đất rừng sản xuất là 187.000 đồng/m2 và giá đất nông nghiệp là 316.000 đồng/m2 (trong khi giá đất này giao dịch trên thị trường khoảng gần 3.000.000 đồng/m2). Theo tài liệu của chúng tôi, ngày 1/4/2013, UBND TP Biên Hòa ban hành hàng loạt quyết định cưỡng chế; đồng thời ngay sau đó, ngày 7/5/2013 cơ quan này cũng nhanh chóng tổ chức cưỡng chế. Điều đáng nói, khi tiến hành cưỡng chế họ không công bố “Quyết định cưỡng chế”; đồng thời có rất nhiều Công an, quân đội, dân quân tới hiện trường… để như “diễu oai”, hù dọa nhằm triệt tiêu sự phản ứng của người dân – một bà con có đất bị thu hồi nói. Theo tìm hiểu của chúng tôi, trong số các hộ bị thu hồi đất có 3 hộ được Trung tâm Lâm nghiệp Biên Hòa giao đất canh tác từ năm 1988 và sử dụng ổn định đến nay; 5 hộ còn lại là đất tự khai phá ven suối hoặc nhận chuyển nhượng của những người khai phá từ những năm 1976 và nay cũng không có tranh chấp. Sau đó, năm 1993, Bộ Quốc phòng thỏa thuận cho UBND tỉnh Đồng Nai mượn 1.302,2ha thuộc khu căn cứ Long Bình giao cho các tập đoàn để trồng rừng và chăn nuôi. Mãi đến ngày ngày 21/11/1995, Thủ tướng Chính phủ mới ban hành Quyết định 760/TTg thu hồi 748,7ha trong 1.302,29ha đã mượn năm 1993, để giao cho UBND tỉnh Đồng Nai quản lý. Ngoài ra, trước đó thực hiện kế hoạch trồng rừng, năm 1985, UBND tỉnh Đồng Nai có mượn của Tổng kho B752 - Bộ Quốc phòng 190ha đất trống, đồi núi trọc và ban hành Quyết định 116/QĐ-UBT ngày 12/2/1985, để giao cho Trạm trồng rừng Tân Phong (nay là Trung Tâm Lâm nghiệp Biên Hòa) trồng rừng theo kế hoạch của Nhà nước (có đất của 3 hộ gia đình nhận khoán đất rừng trồng quản lý). Riêng 5 hộ khai phá đất kể trên thì không thấy ai nói gì. Tranh thủ cưỡng chế để “chạy luật”? Luật sư Tuệ nhận định: Theo quy định của pháp luật về đất đai thì quyết định giao đất để trồng rừng theo kế hoạch số 116/QĐ-UBT ngày 12/02/1985 của UBND tỉnh Đồng Nai được ban hành trước ngày 21/11/1995 (ngày Chính phủ ban hành quyết định 760/TTg giao cho UBND Đồng Nai quản lý) là trái với quy định của pháp luật và đương nhiên không có hiệu lực thi hành. Thế nhưng, trong quá trình thu hồi đất và áp giá bồi thường, UBND TP Biên Hòa lại sử dụng Quyết định 116 ngày 12/2/1985, trước thời điểm được Thủ tướng Chính phủ giao đất cho UBND tỉnh Đồng Nai hơn 10 năm để làm căn cứ giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất với các hộ gia đình bị thu hồi là không có căn cứ pháp lý và trái với quy định của pháp luật. Ngoài ra, đất đang có người sử dụng, nhưng UBND TP Biên Hòa không ban hành quyết định thu hồi đối với từng hộ gia đình, mà lại ban hành quyết định cưỡng chế và tiến hành cưỡng chế là hoàn toàn vi phạm pháp luật nghiêm trọng! Được biết, tháng 1/2013, bức xúc trước việc bị thu hồi đất oan ức, người dân đã khởi kiện các quyết định của UBND TP Biên Hòa ra tòa. Trong khi Tòa án đang thụ lý và chưa đưa ra phán quyết thì TP Biên Hòa lại sử dụng các quyết định đang bị khởi kiện ra thi hành và tổ chức cưỡng chế. Do quá “choáng” với lực lượng cưỡng chế quá hùng hậu, người bị thu hồi đất chỉ biết nín nhịn nhìn tài sản bị tàn phá, hủy hoại. Luật sư Tuệ cũng đặt vấn đề: Một dự án khu dân cư không minh bạch, không có quyết định thu hồi đất, lại có biểu hiện đang được “tranh thủ” cưỡng chế để “chạy luật”. Vì rất nhiều người đã biết, một khi Luật Đất đai sửa đổi tới đây được Quốc hội thông qua thì người thu hồi đất phải minh bạch hóa việc thu hồi, công bố giá cả thì chắc chắn người làm trái sẽ rất “bất lợi”. Báo Xây dựng sẽ tiếp tục thông tin về vụ việc đầy “trái khoáy” này khi có diễn biến mới. Nhung Anh |
0 nhận xét:
Đăng nhận xét